Thứ Tư, 10 tháng 4, 2013

Điều trị virut viêm gan B dự phòng

 Nhiem virut viem gan B (HBV) mạn tính là bệnh được xác định khi có sự hiện diện của kháng nguyên bề mặt của virut viêm gan B (HBsAg) trong tuần hoàn kéo dài hơn 6 tháng, ảnh hưởng khoảng 350 triệu người trên toàn thế giới. Tỷ lệ lưu hành nhiễm virus thay đổi từ các vùng lưu hành dịch cao như châu Phi cận Sahara và Đông Á (³ 8%) đến những vùng có tỷ lệ lưu hành tương đối thấp như Bắc Mỹ và Bắc Âu (< 2%) . HBV lây truyền theo đường trực tiếp hoặc chu sinh và theo chiều ngang, thường như là kết quả của quan hệ tình dục hoặc sử dụng ma túy đường tĩnh mạch. Sự phát triển nhiễm virus mạn tính liên quan chặt chẽ với phương thức lây truyền, đến mức mà sự lây truyền trực tiếp dẫn đến nhiễm virus mạn tính lên đến 90% bệnh nhân nhiễm virus, trong khi lây truyền theo chiều ngang ở tuổi trưởng thành không tiến triển vượt qua giai đoạn cấp tính ở 95% bệnh nhân bị nhiễm virus . Ước tính 15-40% người mang HBV sẽ phát triển suy gan, xơ gan hoặc ung thư biểu mô tế bào gan trong suốt cuộc đời mình.
Một trong những tình huống khó xử hiện nay gặp phải trên lâm sàng trong việc quản lý những người bị nhiễm viêm gan B mạn tính với nhiễm virus đã khỏi hoặc không hoạt động xoay quanh việc tăng nguy cơ tái hoạt của virus trong hoặc sau hóa trị liệu gây độc tế bào. Sự tái hoạt của HBV đã được định nghĩa hơi mơ hồ là sự tăng sao chép của virus ở những người bị nhiễm HBV mạn tính hoặc đã khỏi. Mặc dù không có tiêu chuẩn chẩn đoán được chuẩn hóa đối với tình trạng này, một nghiên cứu gần đây đề nghị như sau: tăng nồng độ HBV DNA trong huyết thanh đến cao hơn 1 log so với mức ban đầu, tăng tuyệt đối cao hơn 6 log10 copies (bản sao)/ml, hoặc chuyển đổi từ HBV DNA huyết thanh âm tính sang dương tính . Sự tái hoạt có thể xảy ra trung bình lên đến 50% trường hợp nhiễm HBV mạn tính đang trải qua hóa trị liệu gây độc tế bào trong khi không xảy ra khi đang điều trị dự phòng kháng virut viem gan B. Sự phát triển như vậy có thể đặt ra một thách thức đáng kể cho sức khỏe bằng cách làm suy giảm tỷ lệ sống còn toàn bộ, gây chậm trễ và gián đoạn trong chế độ hóa trị liệu như là kết quả của các biến chứng ở gan liên quan như các đợt bùng phát viêm gan vàng da . Các nghiên cứu đã báo cáo sự chậm trễ kéo dài 100 ngày và tỷ lệ tử vong trực tiếp từ 4-60% do sự tái hoạt của HBV .
Người ta tin rằng nguy cơ tái hoạt của virus chịu sự thay đổi tùy thuộc vào sự tích cực và thời gian kéo dài của hóa trị liệu, các loại thuốc được sử dụng, loại bệnh ác tính, tuổi, giới tính của bệnh nhân và hồ sơ về huyết thanh học. Các cuộc khảo sát quan trọng ghi nhận trong y văn của Kohrt và cộng sự , Lalazar và cộng sự  và Yeo và Johnson  thông báo phần lớn tóm tắt sau đây về các yếu tố nguy cơ nghi ngờ liên quan đến sự tái hoạt của HBV. Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là cỡ mẫu nhỏ và tính không đồng nhất trong các yếu tố như các bệnh ác tính đã được nghiên cứu, chế độ điều trị và tình trạng huyết thanh lúc ban đầu ngăn cản việc làm sáng tỏ dứt khoát về phân tầng nguy cơ đối với sự tái hoạt của HBV.
Phân tích đơn biến trong một nghiên cứu gồm 78 trường hợp có HBsAg dương tính với các  bệnh ác tính khác nhau đã cho thấy tăng nguy cơ tái hoạt của virus liên quan với giới tính nam và tuổi trẻ. Việc sử dụng corticosteroid, có lẽ do sự tương tác của chúng với một yếu tố đáp ứng glucocorticoid trong Bệnh viêm gan B DNA có thể dẫn đến tăng sự sao chép của virus, và sử dụng anthracycline là thuốc đã được chứng minh là làm tăng sự tiết DNA của virus in vitro, cũng đã được xác định là các yếu tố nguy cơ trong một phân tích đa biến ở 138 bệnh nhân có  HBsAg dương tính với nhiều loại bệnh ác tính khác nhau. Điều quan trọng cần lưu ý ở đây là mặc dù corticosteroid đưa đến nguy cơ tái hoạt cao hơn, hóa trị liệu không steroid không nên nhất thiết được xem là một lựa chọn tốt hơn nếu các nghiên cứu cho thấy tỷ lệ thuyên giảm bệnh và tỷ lệ sống còn toàn bộ giảm đáng kể như là kết quả của chế độ điều trị có khả năng kém hơn này. Việc sử dụng liệu pháp kháng thể đơn dòng kháng CD20 với rituximab cũng đã được đề nghị trong nhiều báo cáo như là một yếu tố nguy cơ. Trong một nghiên cứu gần đây ở một nhóm đồng nhất gồm 46 bệnh nhân có HBsAg âm tính/kháng thể kháng HBc dương tính, với u lympho tế bào B lớn lan tỏa đang trải qua hóa trị liệu (liệu pháp CHOP) có hoặc không có rituximab, rituximab được tìm thấy là liên quan đáng kể với sự tái hoạt của HBV . Phân tích đơn biến trong một nghiên cứu gồm 46 bệnh nhân có HBsAg dương tính có u lympho cũng cho thấy rằng việc điều trị sử dụng hóa trị liệu hàng thứ hai hoặc hàng thứ ba đã dẫn đến tăng tỷ lệ tái hoạt.
Về các yếu tố nguy cơ liên quan đến hồ sơ về huyết thanh học, người ta đã xác định rằng nguy cơ tái hoạt lớn nhất tồn tại ở bệnh nhân dương tính đối với HBsAg và nguy cơ thấp nhất ở bệnh nhân có nồng độ kháng thể kháng kháng nguyên bề mặt của virus bệnh gan B (anti-HBs) trên 10 IU/lít. Kháng thể kháng kháng nguyên lõi của HBV (anti-HBc) có thể phát hiện khi không có HBsAg dương tính hoặc anti-HBs dương tính cũng đã được đề nghị là đem đến nguy cơ, mặc dù thấp hơn, về sự tái hoạt. Huyết thanh dương tính đối với HBeAg đã được xác định là một yếu tố nguy cơ, nhưng sự không có HBeAg không loại trừ khả năng tái hoạt do tồn tại các đột biến promoter tiền lõi và lõi với HbeAg âm tính ngăn cản sự sản xuất HBeAg. Một phân tích đa biến gần đây kiểm tra các yếu tố dự đoán sự tái hoạt của virus ở 133 bệnh nhân trải qua sự chuyển đổi huyết thanh đã tìm thấy là genotype C (so với genotype B), nam giới, nồng độ alanine aminotransferase (ALT) cao hơn 5 lần giới hạn trên của mức bình thường trong phase HbeAg dương tính và lớn hơn 40 tuổi tại thời điểm chuyển đổi huyết thanh HbeAg, tất cả đều có liên quan đáng kể với tỷ lệ tái hoạt cao hơn .
Nồng độ HBV DNA có thể phát hiện trước hóa khi hóa trị liệu có liên quan với tăng nguy cơ trong một phân tích đơn biến ở 41 bệnh nhân ung thư vú (tải lượng virus > 3 x105 copies/ml) và một phân tích đa biến ở 138 bệnh nhân có nhiều bệnh ác tính khác nhau (tải lượng virus   > 2,9 x105 copies/ml). Kohrt và các đồng sự cho rằng điều này có thể là yếu tố chỉ thị mạnh nhất về nguy cơ tái hoạt.
Nguy cơ tái hoạt cao nhất đã được báo cáo (67%) tìm thấy ở những bệnh nhân trải qua điều trị viêm gan có glucocorticoid đối với các bệnh ác tính về huyết học. Nguy cơ tổng thể thấp nhất   (£40%) được quan sát thấy ở những bệnh nhân trải qua hóa trị liệu không có glucocorticoid đối với các khối u đặc. Chưa rõ có phải những sự khác biệt về nguy cơ tái hoạt trong các loại bệnh ác tính khác nhau là do sự thay đổi về mô học của khối u hay là sự thay đổi về dạng và các thuốc được sử dụng trong các loại hóa trị liệu tương ứng của họ. Tóm tắt về nhiều yếu tố nguy cơ đề cập ở trên được cho trong

Xem thêm: benh viem gan A| gan nhiem mo| gan nhiễm mỡ| dieu tri gan nhiem mo| cách điều trị viêm gan B| giai doc gan

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét